Theo hướng dẫn hiện hành của Immigration and Naturalization Service (INS) (tạm dịch: Cục Di trú và Nhập tịch Hoa Kỳ), USCIS đã cho rằng một người có khả năng trở thành gánh nặng xã hội nếu người đó sống chủ yếu phụ thuộc vào nguồn trợ cấp của chính phủ, thể hiện qua việc (i) nhận hỗ trợ tiền mặt để đảm bảo thu nhập, hoặc (ii) thể chế hóa việc chăm sóc dài hạn bằng chi phí chính phủ. Các nguồn trợ cấp tiền mặt bao gồm Supplemental Security Income (SSI) (tạm dịch: Tiền trợ cấp an sinh xã hội), Temporary Assistance for Needy Families (TANF) (tạm dịch: Hỗ trợ tạm thời cho gia đình nghèo khó), và bất kỳ các khoản trợ cấp tương đương ở tiểu bang hoặc địa phương. Các nguồn trợ cấp không bằng tiền mặt như tem thực phẩm hoặc trợ cấp y tế đã không được xét đến. Ngay cả việc nhận lợi ích tiền mặt cũng không được mặc định là “gánh nặng xã hội”.
Quy định mới về gánh nặng xã hội bao gồm 837 trang.
Theo quy định mới, khái niệm gánh nặng xã hội sẽ gắn liền với việc đương đơn sử dụng bất kỳ loại tiền trợ cấp xã hội nào trong hơn 12 tháng (tổng cộng) trong bất kỳ chu kỳ 36 tháng nào, và khả năng đương đơn trở thành một gánh nặng xã hội trong tương lai.
Các loại tiền trợ cấp xã hội có thể kể đến là trợ cấp tiền mặt và phi tiền mặt từ liên bang, tiểu bang hoặc cơ quan địa phương. Các phúc lợi xã hội khiến cho một người trở thành gánh nặng xã hội bao gồm: các lợi ích tiền mặt để đảm bảo thu nhập, tiền trợ cấp an sinh (SSI), hỗ trợ tạm thời cho các gia đình nghèo khó (TANF), chương trình hỗ trợ dinh dưỡng bổ sung (SNAP), hầu hết các hình thức hỗ trợ y tế Medicaid và các chương trình nhà ở nhất định.
Các phúc lợi xã hội không ảnh hưởng đến việc xác định gánh nặng cộng đồng bao gồm: trợ cấp y tế Medicaid cho những người dưới 21 tuổi hoặc phụ nữ mang thai, trợ cấp y tế cho các dịch vụ tại trường học (bao gồm các dịch vụ dành cho người khuyết tật) và trợ cấp y tế cho các dịch vụ y tế khẩn cấp
Thay đổi quan trọng nhất đó là việc sử dụng trợ cấp y tế Medicaid và tem thực phẩm cũng sẽ ảnh hưởng đến đương đơn. Cho đến nay, các chương trình này đã trở thành những chương trình viện trợ lớn nhất của liên bang. Việc thêm vào các phúc lợi này sẽ tăng gấp 10 lần khả năng trở thành gánh nặng xã hội của đương đơn.
Dù đương đơn chưa từng nhận bất kỳ phúc lợi xã hội nào trong quá khứ thì vẫn có thể bị coi là một gánh nặng xã hội nếu dựa trên tình hình thực tế, đương đơn có khuynh hướng sẽ phụ thuộc vào nguồn phúc lợi xã hội trong tương lai. Luật và hướng dẫn hiện hành chỉ yêu cầu những nhân viên phán xử xem xét năm yếu tố bao gồm: tuổi tác, sức khỏe, tình trạng gia đình, tài chính và giáo dục hoặc các kỹ năng. Luật lệ về gánh nặng xã hội sẽ quy định các yếu tố này chi tiết hơn (ví dụ: có khả năng nói tiếng Anh được tính là một kỹ năng) và cân nhắc chúng theo hướng tích cực hoặc tiêu cực.
Trong giai đoạn này, bằng Tờ khai về khả năng tự túc I-944, USCIS đang tạo ra một quy trình mới để ước tính khả năng trở thành gánh nặng xã hội của một người. Quy tắc mới cũng sẽ gây ra những tác động nghiêm trọng có thể dẫn đến việc từ chối đơn xin tình trạng thường trú nhân, ví dụ như: 1) không có triển vọng nghề nghiệp trong tương lai, 2) nhận phúc lợi xã hội trong giai đoạn 3 năm trước và 3) không có bảo hiểm y tế và nhu cầu y tế. Yếu tố tích cực duy nhất có tầm ảnh hưởng để chống lại những điều này là mức thu nhập 250% so với mức nghèo khó.
Việc USCIS truy tìm các gánh nặng xã hội sẽ dẫn đến việc từ chối đơn đăng ký thẻ thường trú, hoặc có thể dẫn đến việc chấm dứt tình trạng không di dân của người nước ngoài. Quy định cuối cùng cũng cho biết đương đơn có thể sử dụng trái phiếu tối thiểu là $8,1000 để làm tiền “bond” cho một cá nhân bị từ chối vì lý do gánh nặng xã hội.
Dự kiến rằng sẽ có nhiều vụ kiện từ các khu vực pháp lý và tổ chức khác để cố gắng ngăn chặn việc thi hành quy định mới về gánh nặng xã hội. Các thành phố như Santa Clara và San Francisco ở California đã đệ đơn kiện lên Tòa án Liên bang Hoa Kỳ ở Bắc California để tìm cách ngăn chặn việc thi hành quy định cuối cùng về gánh nặng xã hội. Vì vậy, hiện nay các đương đơn sẽ phải lo lắng nhiều hơn.